Ở phụ nữ luống tuổi, sự xuất hiện những khối u, khối ung thư tại phần phụ còn gây hoang mang cho bản thân người bệnh và gia đình.
Các loại ung thư thường gặp là ung thư cổ tử cung, ung thư vú và ung thư buồng trứng. Mặc dù đều là những căn bệnh nguy hiểm, có tỷ lệ tử vong cao nhưng không phải là không có biện pháp điều trị đặc hiệu.
Ung thư cổ tử cung:
Tuổi phổ biến mắc bệnh là từ 30 – 60 tuổi, đỉnh cao từ 45 – 55 tuổi. Xu hướng chung ngày nay là những phụ nữ lớn tuổi (trên 35 tuổi), sinh đẻ nhiều mỗi năm nên đi khám phụ khoa 1 lần để làm phiến đồ tế bào âm đạo – cổ tử cung; nếu có bất thường sẽ kết hợp soi cổ tử cung. Các tổn thương nếu được phát hiện sớm thì khả năng chữa khỏi rất cao vì từ giai đoạn tiền xâm lấn sang xâm lấn khá dài, từ 8 – 10 năm, thậm chí là 20 năm. Đó chính là cơ hội vàng giúp người thầy thuốc có thể phát hiện được bệnh sớm. Chính vì thế, một số bác sĩ phụ khoa đã lạc quan tin tưởng rằng trong tương lai không xa, người ta có thể kiểm soát được bệnh ung thư cổ tử cung!
Ung thư vú:
Thường xảy ra ở những phụ nữ có mẹ bị ung thư vú, đặc biệt là ở những người có mẹ bị ung thư vú cả hai bên trước thời kỳ mãn kinh. Các phụ nữ này có nguy cơ mắc bệnh cao gấp 9 lần những người bình thường và 50% trong số họ có thể bị bệnh. Ung thư vú hay gặp ở những phụ nữ chưa sinh lần nào, đặc biệt là các nữ tu sĩ. Sinh nở càng nhiều thì nguy cơ ung thư vú lại càng thấp.
Điều trị: Phụ thuộc rất nhiều vào giai đoạn của bệnh; thường sử dụng kết hợp giữa phẫu thuật, xạ trị và hoá trị liệu, hiếm khi điều trị đơn độc. Hoá trị liệu rất cần thiết, nhất là khi bệnh nhân đã đến tình trạng quá trễ.
Phòng bệnh: Hướng dẫn cho phụ nữ, nhất là những người trên 40 tuổi biết phương pháp tự tầm soát ung thư vú và chụp nhũ ảnh mỗi 6 tháng đến 1 năm.
Ung thư buồng trứng:
Hầu hết ung thư buồng trứng gặp ở phụ nữ ngoài 50 tuổi, nhưng cũng có thể xảy ra ở người trẻ, khó phát hiện sớm. Phụ nữ chưa bao giờ sinh đẻ dễ bị ung thư buồng trứng. Nguyên nhân cụ thể thì chưa rõ nhưng người ta nhận thấy rằng số phụ nữ bị ung thư buồng trứng tập trung nhiều ở những nước công nghiệp phát triển, có lẽ do chế độ ăn nhiều mỡ hơn, sử dụng thuốc kích thích rụng trứng (clomid, perganon)… Chưa có giả thiết nào được công nhận. Có lẽ yếu tố duy nhất được công nhận là có kết hợp giữa tỷ lệ ung thư buồng trứng gia tăng với tiền sử gia đình (bà con họ hàng gần) có người đã từng bị ung thư buồng trứng.
Ở những nơi mà phụ nữ hút thuốc lá thì nguyên nhân tử vong do ung thư phổi là phổ biến nhất. Ung thư vú chỉ đứng hàng thứ hai trong số nguyên nhân tử vong do ung thư (ở Mỹ). Ung thư trực – đại tràng xếp thứ ba. Khoảng 1/3 số tử vong do ung thư liên quan đến dinh dưỡng hoặc do lối sống và có thể phòng ngừa được.
Triệu chứng: Thường được xem là “kẻ giết người thầm lặng” vì phần lớn phụ nữ khi đã thể hiện triệu chứng thì đã muộn.
Hiện nay chưa có phương pháp phòng ngừa nhưng một số thực hành có vẻ giảm được nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng: dùng viên thuốc tránh thai uống, nhất là với những phụ nữ đã dùng trong nhiều năm. Điều trị bao gồm: phối hợp mổ cắt bỏ buồng trứng – hoá liệu pháp – tia xạ liệu pháp.
Theo Kienthucsuckhoe